Trận Ấp Bắc (2 tháng 1, 1963)  Ký ức của một  quân y sĩ .

Lời nói đầu:  Trận Ấp Bắc xẩy ra cách đây 40 năm, là một bại trận của Quân đội Quốc Gia. Vâng, một bại trận, vì không có một danh từ nào khác để đánh giá trận này. Quân Cộng sản do Hanoi điều khiển, xưa nay vẫn chỉ quen du kích chiến, đã giám đương đầu trong suốt một ngày với Quân đội Quốc Gia đông người và nhiều phương tiện hơn, đã thắng trận này và đã bảo toàn được lực lượng khi rút lui. Thất bại này của phe ta, hoàn toàn do sự bất tài bất lực của cấp chỉ huy. Lý do chính là việc dùng người của Tổng thống Ngô đình Diệm, không tin những ai  thật sự yêu Nước và có khả năng, mà chỉ vì ưa nịnh và sợ đảo chính, đã cho giai cấp gia nô khiếp nhược nắm hầu hết chức vụ then chốt trong Quân đội. Trường hợp điển hình là việc điều quân một cách bết bát ngoài sức tưởng tượng trong trận Ấp Bắc, khiến chúng ta đáng lẽ thắng lớn, mà đành phải chịu thua một địch quân yếu hơn chúng ta nhiều. Trận Ấp Bắc còn có một ảnh hưởng chiến lược lớn lao: trước hết Ðồng minh Hoa Kỳ đánh giá lại khả năng của Quân đội Quốc Gia và mượn cớ này để sửa soạn đổ quân ào ạt vào miền Nam, điều mà chính Tổng thống Ngô đình Diệm không muốn chút nào! Thứ hai là bộ máy tuyên truyền của Hanoi  mở hết tốc lực thổi phồng chiến thắng Ấp Bắc lên như một Stalingrad của phe Cộng sản,  vận động tinh thần quân cán và gửi thêm nhiều người và khí cụ vào miền Nam từ sau trận này. Tôi viết bài này để tưởng nhớ đến những quân nhân của Quân đội ta đã hy sinh trong ngày 2 tháng 1 năm 1963 tại Tân Thới - Ấp Bắc vì họ đã không được chỉ huy, và đặc biệt 18 chiến binh của TÐ8ND đã cùng chúng tôi nhẩy xuống vùng đồng lầy nước đọng này chiều tối hôm đó, và đã bỏ mình một cách oan uổng vì sự  kém cỏi cũng như tính toán ngu xuẩn của những người chỉ huy đương thời.

            Trong bài này, đôi khi tôi ôn lại những kỷ niệm cũ không liên quan gì với đề tài chính, mong những mẩu chuyện ngoài đề đó giúp các chiến hữu đọc giả nhớ lại quãng đời  chúng ta đội mũ đỏ phục vụ Quê Hương.

         Thật tình cờ mà tôi lại dự trận Ấp Bắc chiều ngày mồng 2 tháng 1 năm 1963. Binh chủng Nhẩy dù hồi đó là lực lượng tổng trừ bị duy nhất của quân đội,  chiến trận chưa đến nỗi sôi bỏng như các năm về sau, hoạt động địch quân hầu hết là du kích chiến hơn là trận điạ chiến. Lữ đoàn nhẩy dù năm 1963 gồm 5 Tiểu đoàn tác chiến cùng các đơn vị tiếp vận, đảm trách  nhiệm vụ ‘lính cứu hỏa ‘ cho toàn quốc, chỗ nào có chuyện gây cấn là được Tổng Tham Mưu gọi đi chữa cháy.

Ngoài những đơn vị đi hành quân xa, tại Saigon ngày nào cũng có 2 tiểu đoàn ứng trực: một tiểu đoàn trực hành quân bộ (ground alert), với một đoàn xe GMC đậu sẵn trong doanh trại, có lệnh là lên xe đi. Một tiểu đoàn trực hành quân không vận, được gọi là air alert : đơn vị ra nằm sẵn tại phi trường Tân sơn Nhất, khi hữu sự thì lên máy bay đi can thiệp những nơi dầu sôi lửa bỏng. Nếu từ sáng đến chiều không có chuyện gì xẩy ra, thì chúng tôi chỉ nằm dài bên cạnh những bộ dù được xếp ngay ngắn ngay tại sân bay,  chúng tôi tán gẫu để giết thời giờ, đọc sách báo hay đôi khi đánh boule cũng gọi là pétanque (một trò chơi của quân đội Viễn chinh Pháp để lại)  Binh sĩ  TÐ1ND mà tôi làm y sĩ trưởng trong suốt 4 năm trời, rất chuộng trò chơi này. Họ còn đánh ăn tiền hay nhậu la ve hết giờ nọ qua giờ kia và những tay ‘thiện xạ’ ném boule là nhũng chuyên viên uống bia Larue miễn phí. Hồi tôi mới về Dù, khu Chí hoà là nơi đóng quân của 3 đơn vị: cácTiểu đoàn 1, 3 và 6ND. Mỗi Tiểu đoàn có một sắc thái riêng biệt. TD1ND đa số là người gốc Miên, lính rất chì, rất trung thành, da sạm đen, huy chương và thâm niên công vụ đầy người. Hồi đầu tôi có cảm tưởng họ toàn anh em với nhau vì tên họ đều là Thạch, Sơn hay Lý . TÐ3ND đóng ngay ngã tư Bảy Hiền là giang sơn của người Nùng. Lính cũng rất chì, có lối ăn nói đặc biệt và khi đụng trận súng  mới nổ, đã thấy mấy que hương khói nghi ngút buộc ở đầu súng, không hiểu được đốt lên từ lúc nào? Trước mặtTÐ3 là doanh trại TÐ6ND, đơn vị nhẩy dù cuối cùng được thành lập trước khi ký kết hiệp định Genève. Tiểu đoàn này đa số là dân Việt chính cống, ông Tiểu đoàn trưởng là đại úy Ðỗ kế Giai, người điềm đạm, chậm rãi ít nói ít cười, được anh em tặng cho cái biệt danh là Hoàng Tử, sau này là Thiếu tướng chỉ huy binh chủng Biệt Ðộng Quân. Ông Tiểu đoàn phó, giáng dấp thư sinh, là đại úy Lê nguyên Vỹ, đã tuẫn tiết ngày 30/4/75 trong khi giữ chức vụ Tư lệnh SÐ5BB. Với số quân nhân đông đảo như vậy, các quán cà phê ăn uống xung quanh rất sầm uất. Có một quán mà bà chủ, (tôi nghi đã có một dĩ vãng me tây hoặc chị em ta, trừ khi là cả hai!..) rất am hiểu tâm lý và sinh lý mấy anh đực rựa sung sức này. Bà ta thách đố anh nào có đủ tửu lượng uống hết 4 chai Larue cổ cao trong hai tiếng đồng hồ, mà phải ngồi ở bàn không được đứng dậy. Nếu cầm cự được mà không đứng dậy đi tiểu, thì bà ấy sẽ đãi tất cả miễn phí, kể cả đồ nhắm (tôm khô, củ kiệu, thịt bò khô)! Theo các ‘ nạn nhân ‘ kể lại, không anh nào cầm cự nổi hai tiếng mà không phải đứng dậy trước, và trong trường hợp này lẽ dĩ nhiên là phải trả tiền tất cả những gì mình đã dùng. Kết quả là rất nhiều binh lính mũ đỏ đã mất tiền cho bà này. Ði qua ngã tư Bảy Hiền là đến trại Hoàng Hoa Thám, nơi bộ Tư lệnh của Binh chủng và các đơn vị trợ chiến.

Kiểm điểm các đơn vị ND hồi đó mà không nói đến TÐ5ND đóng tại Thủ Ðức, là một  thiếu sót. Tiểu đoàn này đã dự trận Ðiện biên Phủ và đã chiến đãu tới phút chót cùng 5 Tiểu đoàn ND khác của Quân đội Viễn Chinh Pháp; đơn vị đã được bổ xung lại sau hiệp định Genève.Người Tiểu đoàn trưởng khét tiếng cua TD5ND là đại úy Ngô xuân Soạn, một con người sống cho chiến tranh và vì chiến tranh. Thành tích chiến trận của ông, từ ngoài Bắc vào đến trong Nam lừng danh trong hàng ngũ chúng tôi. Tiếc thay ông bị sát hại khi đảo chính 11-11-60 bất thành. Tiểu đoàn chót là TD8ND, tham dự trận Ấp Bắc mà tôi sắp kể, doanh trai đặt ngay trong can cứ Hoàng hoa Thám/ TSN . Chính tôi cũng đã có công trong việc thành lập Tiểu đoàn này. Ðầu năm 1960, bác sĩ Của, xếp của tôi, chỉ thị cho tôi mang một toán y tá ra Huế để tuyển mộ binh sĩ  thành lập thêm một TÐND. Nghĩ phảỉ ra nằm ụ nơi đất Kinh mấy tuần lễ, mặc dầu nhiều thi vị xong xa gia đình và Sài thành hoa lệ, tôi đã nói ngay với anh Của: tại sao phải ra tận Huế mới kiếm được lính nhẩy dù? Anh cho tôi mang loa ra quảng cáo ngay ngã tư Bảy Hiền và ngã ba Ông Tạ, chỉ trong không đầy một tháng tôi sẽ kiếm đủ quân để thành lập hai ba tiểu đoàn chứ một tiểu đoàn thì thấm gì! BS Của lắc đàu, nhăn đôi lông mày nói lại với tôi: toa chả hiểu gì cả, đây là lệnh trên! Cụ , ám chỉ Tổng thống Ngô đình Diệm, chỉ tin người Trung và muốn có một TÐND toàn lính Trung! Tôi đành lắc đầu ra Huế mộ đủ binh sĩ để về thành lập thêm TÐ8ND. Hồi xẩy ra cuộc đảo chính 11-11-60, một số lính Trung do tôi tuyển mộ, trên nguyên tác phải trung thành với Cụ, đã không ngần ngại tuân lệnh cấp chỉ huy bắn vào dinh ÐộcLập ! Sau đây tôi xin quay lại trận Ấp Bắc.

            Ngày 2 tháng 1 năm 1963, TÐ8ND có nhiệm vụ ứng trực không vận ở phi trường Tân sơn Nhất, một ngày trực có vẻ êm ả vì lúc đó đã đến gần 5 giờ chiều; chỉ độ hơn một tiếng nữa là mọi người có quyền roméo (tục ngữ nhà binh có nghiã là rút lui, đi về) về hậu cứ. Thì đùng một cái, có lệnh nhẩy hành quân. Trong những năm đó, bác sĩ có bằng dù chỉ đếm trên đầu ngón tay; vì nhu cầu quân vụ, vài bác sĩ  không tình nguyện nhẩy cũng bị chỉ định về Quân Y  nhẩy dù. Mấy đồng nghiệp đó chỉ chân trước chân sau, hễ có người thay thế là ‘dọt ‘ Ðó là trường hợp TÐ8ND chỉ có một bác sĩ đi bộ mà thôi. Tại Bộ Tư lệnh, lúc đó có mình tôi. Bác sĩ Văn văn Của, Y sĩ trưởng Lữ đoàn, đang hành quân vùng Tây Ninh trong một chiến dịch khác. Vì tình thế cấp bách,  tôi phải chạy vội sang phi trường TSN để đi cùng TÐ8. Lúc đó gần 6 giờ chiều và một quang cảnh thật là hấp tấp diễn ra trước mặt tôi, các sĩ quan thì vừa nhận được lệnh hành quân và bản đồ đang quay đầu bàn bạc với nhau, binh sĩ thì mạnh ai nấy mang dù chứ ít được huấn luyện viên kiểm soát như trong những lần nhẩy bồi dưỡng hay nhẩy trận mà tôi đã từng tham dự. Tôi nhớ chỉ đủ thời giờ nói vài câu với ông bác sĩ của TÐ và chỉ kịp gặp anh y tá trưởng, tôi  không  tiếp xúc được với tất cả các y tá khác để biết phương tiện cấp cứu ra sao ( thời đó yểm trợ của Hoa Kỳ chưa được dồi dào nên vật liệu y tế còn thô sơ hơn là sau 1965). Chính thân tôi lúc lên máy bay mà dù bụng còn cầm trong tay! Thêm vào đó, ông cố vấn trưởng Lữ đoàn là đại tá Triplett đứng nhìn chúng tôi leo lên phi cơ mà cứ lắc đầu: too late! too late! Trễ quá, trễ quá...

            Phi cơ thả chúng tôi là 7 chiếc C123 Fairchild với phi hành đoàn Hoa Kỳ, thả dù bằng hai cửa, khác với C47 Dakota chỉ  có một cửa. Mỗi chiếc C123 thả được 40-45 quân nhân  trong khi C47 chỉ chở được 25 người tối đa. Sau khi cất cánh, một sĩ quan cho tôi biết là sẽ nhẩy xuống ruộng và tôi nhớ là trong suốt chuyến bay tôi cứ vo viên một miếng giấy nhét vào họng khẩu súng carbine báng gấp, vì chỉ sợ nước hay bùn chui vào nòng súng..!            

            Rồi đến lúc nhẩy. Dù vừa bọc thì tôi nghe như có mưa rào lên nón sắt, tôi ngửa mặt lên  thì thấy cánh dù mở to như thường lệ và tôi thầm nghĩ là nếu có mưa đi nữa thì làm sao  hạt nước mưa có thể rơi vào nón sắt tôi được. Liền sau đó tôi nhìn xuống đất thì mới thấy cảnh hãi hùng: đạn lửa chằng chịt như một mạng nhện, bắn tứ phiá và bắn lên chúng tôi! Hoá ra những tiếng mưa trên nón sắt chỉ là tiếng súng dưới đất vang lên và bị lá dù cho dội lại mà thôi. Bình thường khi nhẩy dù bồi dưỡng, ai cũng muốn rớt thật chậm để hưởng những giây phút thú vị lơ lửng trên không, lần này sao mà tôi thấy mãi không xuống tới đất! Mà càng xuống gần đất, tiếng súng nổ càng chát chúa, đến khi đáp xuống bùn ruộng thì đạn bay vèo vèo, chỉ còn một nước là nằm úp mặt xuống đất, hay núp sau các bờ ruộng để khỏi bể sọ. Lúc đó khoảng 18giờ30, trời bắt đầu tối, tầm nhìn xa bắt đầu giới hạn. Một trực thăng ‘trái chuối’ H21 vừa đáp sau lưng chúng tôi độ 300 thước bị một tia đạn lửa từ trong làng bắn ra và kịp thời bay đi. Ðã thử lửa đôi lần khi hành quân, nghe đạn bay là thường, song khi quá nhiều đạn bay như kỳ này, tôi có cảm tưởng là cả một bầu không khí rung chuyển xung quanh. Lần đầu tiên tôi chứng kiến một người bị trúng đạn cách tôi có 5 thước, tôi nghe rõ thấy như một quả đấm vào người  lính đó trước khi anh ta lăn quay ra. Trong khoảnh khắc sau khi đáp xuống ruộng trước xã Ấp Bắc, đã có 3 binh sĩ bi thuong chung quanh tôi, tôi đã lấy 3 băng cá nhân tôi có trên người, một trên mũ sắt, hai trong túi áo saut  lấy vội ở hậu cứ trước khi đi, để mà băng cho họ, may mà 3 thương binh này không bị nặng lắm. Một anh còn nói chuyện với tôi suốt đêm, hai ngưoi núp sau một cái mả. Có một lúc anh ấy hỏi tôi có thuốc chích cho anh ấy bớt đau không, tôi rất buồn phải trả lời là trong tay tôi không có một thứ thuốc nào để có thể làm cho anh ấy bớt đau hết. Vừa trả lời nguời thương binh vừa lo cho số phận mình, chẳng may bị thương thì ai săn sóc mình đây, trong tay không còn đến một cuộn băng. Y tá của tôi thì giờ này ở đâu? Cứ tính với đà nhẩy trung bình, thì khi xuống đất mỗi người phải cách nhau ít nhất 50 thước; vậy toán y tá khoảng 20 người đi theo bác sĩ ở Ðại đội Chỉ huy phải rải rác trên dưới một cây số, cần ít nhất 30 phút để tập họp trong điều kiện bình thường. Nay trời đã tối, địch trong các điạ điểm làm sẵn trong xã Ấp Bắc, nhìn thấy chúng tôi rất rõ và không cho phép chúng tôi tập họp để lấy đội hình tấn công, ai nấy nằm bẹp tại chỗ. Báo hại thỉnh thoảng lại có một quả hỏa tiêu chiếu sáng từ đâu bắn tới, làm tất cả bãi ruộng sáng như ban ngày, và địch thừa thế từ trong làng cứ bắn sẻ hoặc bắn ra như mưa. Dần dần, tôi thấy chừng ba bốn sĩ quan trong đó có đại úy Tiểu đoàn phó, đứng cách chỗ tôi độ vài chục thước, bàn tính cách đối phó trong tình cảnh nguy hiểm này.Trời đã tối hẳn, chạy từ thương binh này sang thương binh kia, tôi cũng được các vị này cho biết là  chỉ có nửa tiểu đoàn nhẩy mà thôi, phần còn lại cùng ông Tiểu đoàn trưởng kẹt lại phi trường TSN vì trời tối máy bay không thả được nữa. Tình thế lúc đó thật là éo le: một nửa TÐ8ND nằm dài trên một cây số ngoài đồng ruộng, tập hợp rất khó khăn, không có yểm trợ phi pháo, hoả lực cơ hữu ngoài vũ khí cá nhân chỉ có mấy khẩu đại liên 30, súng cối của đơn vị (60 hay 81 ly) một mặt tản mát, một mặt ruộng xình lầy không đặt bàn tiếp hậu được. Tôi hiểu qua các đàm thoại của mấy ông Ðại đội trưởng, là với quân số tập trung lại được, hai ba cuộc tấn công lẻ tẻ của ta vào làng đều bị đẩy lui. Trong tình thế rối beng đó, một vị đại đội trưởng, đại úy Phạm huy Sảnh thì phải, gặp tôi và nói:’ bác sĩ ơi, ở bià làng bị thương nhiều lắm, bác sĩ lên đó coi xem sao’ Tôi nhớ có trả lời đại úy Sảnh: đại úy muốn tôi lên thì tôi lên ,song trong tay tôi không còn một thứ gì để săn sóc thương binh cả, y tá của tôi không có lấy một người, tôi làm gì được bây giờ?...’ Phân vân  không biết xử trí ra sao, rồi nghĩ biết đâu với hai bàn tay trắng, may ra tôi có thể làm được một cái gì chăng?..Lúc đó một anh lính ngơ ngác đi qua, tôi vội chộp lấy anh ấy: ‘nếu cậu không biết đi đâu thì cậu đi với tôi đến gần làng xem có ai bị thương, mình có thể di tản về khu tương đối an toàn sau mấy gò mả này’. Trời tối đen, thỉnh thoảng có vài viên đạn lửa bay trên đầu, tôi và anh binh sĩ mò mẫm bò theo các bờ đê nhỏ tiến về phiá làng cách xa độ hai ba trăm thước. Lết được một lúc, không biết bao xa, không gặp một thương binh nào hết, tôi có cảm tưởng là chúng tôi đang ở  cái no man’s land giữa bạn và địch, đêm thì tối om... Hai  chúng tôi đồng quyết định quay về vị trí cũ vì ở chỗ này nguy hiểm quá! Và cứ như thế cho đến sáng, tôi cứ thấy mấy ông sĩ quan xem bản đồ và bàn kế to nhỏ với nhau. Tôi quả quyết là suốt đêm đó, không một quả đại bác nào được bắn vào đám địch quân đóng trong làng trước mặt chúng tôi. Cũng may là chúng  không có súng cối hay súng không giật (SKZ) bắn ra. Tôi giám cam đoan là lúc đó chỉ cần pháo binh bạn yểm trợ vài chục quả 105 vào bià làng là chúng tôi có thể tấn công  và có triển vọng thanh toán mục tiêu mặc dầu quân số chỉ có nửa tiểu đoàn. Vậy pháo binh Tiểu khu, pháo binh SÐ7BB đâu? Tôi không thấy có tiền sát viên pháo binh tiền tuyến, và nếu tôi không nhầm thì TÐ8 chẳng có liên lạc gì được với Bộ Tư lệnh Hành quân ở Tân Hiệp hay Mỹ Tho. Khi trời tờ mờ sáng thì tiếng súng thưa thớt rồi im hẳn. Lúc đó tôi gặp anh đại úy Mỹ cố vấn của Tiểu đoàn, bị thương  ở cánh tay. Tôi hỏi ông ta có cần tôi làm băng lại không vì đám y tá của tôi bắt đầu đến, vị đại úy này lắc đàu và thở dài một cách chán nản. Chúng tôi thận trọng vào làng thì địch đã rút, chỉ còn mấy chỗ đặt súng đại liên cùng các hố chiến đãu cá nhân và ít vỏ đạn. Chúng tôi thu tập được mấy binh sĩ nhẩy dù rớt vào làng bị địch giết, người còn đeo đai dù nhưng lá dù thì đã bị địch cắt mang đi. Thấy cảnh này, tôi thật hồi hộp nghĩ lại chuyến nhẩy tối hôm qua: theo tục lệ, lúc nào sĩ quan hay cán bộ chỉ huy cũng nhẩy đầu. Trong trường hợp này vì nhẩy đầu nên tôi đáp xuống ruộng ở ngoài làng, còn binh sĩ nhẩy sau, một vài người không may đã rớt lạc vô làng và bị sát hại. Giá phi cơ thả ngược hướng, thì sĩ quan hoặc cán bộ sẽ có triển vọng rớt vô làng rồi...Sau khi kiểm điểm sơ tổn thất, 18 tử thương và độ 30 bị thương, TÐ8 rút bằng đường bộ và chiều ngày hôm đó ra tới đường cái đi lục tỉnh, xe đò chở hành khách chạy ngược xuôi như trong thời bình.

            Ðã chọn đời sống ngang dọc với một binh chủng khét tiếng chiến đấu, tôi không có quyền lo sợ hay ta thán khi gặp nguy hiểm, song xuýt chết trong một cuộc hành quân lãng nhách làm tôi bực bội và nghĩ ngợi liên miên trên con đường rút quân. Các sĩ quan khác chắc cũng cùng một mối ưu tư như tôi, nên chẳng ai nói với ai cho đến khi Tiểu đoàn về tới hậu cứ .

            Ngày hôm sau, tôi sang TYV Cộng Hoà thăm các thương binh TÐ8ND và tạt luôn vào US 3rd Field Hospital tọa lạc ngay trước Bộ TTM, để thăm viên đại úy cố vấn  bị thương. Vì thoát hiểm cùng với nhau và có lẽ tính tôi thích nói chuyện quân sự, nên chúng tôi có cảm tình ngay với nhau và thẳng thắn trao đổi ý kiến về cuộc hành quân ly kỳ này. Anh đại úy này cùng chia sẻ lập trường của tôi về cách sử dụng TÐ8ND và tất cả những thiếu sót trong việc phối hợp điều hành trận đánh. Tôi còn nhớ thỉnh thoảng anh ta cứ lắc đầu với câu ‘ number ten...’ (hạng chót), tục ngữ nhà binh Mỹ mô tả cái gì bết bát bê bối, (ngược lại với  câu ‘number one’ - số dách - để chỉ những gì hay ho, đáng khen đáng phục). Hai chúng tôi cũng hứa với nhau là sẽ cho nhau biết thêm tin tức về trận đánh này, anh ấy dò la bên phiá cố vấn Mỹ, tôi thì tìm hiểu bên phiá VN. Chúng tôi còn gặp nhau vài lần sau đó và được biết tình hình ngày hôm đó đại để như sau: trong những ngày cuối năm 1962, tin tức tình báo và cơ quan kiểm thính cho biết tại xã Tân Thới và Ấp Bắc, hai thôn nhỏ  nằm cạnh nhau, có một đài phát thanh VC hoạt động với sự hiện diện của độ hơn 100 du kích võ trang. Tướng Huỳnh văn Cao, vừa được chỉ định làmTư lệnh V4CT, mở cuộc hành quân tảo thanh hai mục tiêu này với sự yểm trợ của trực thăng Hoa Kỳ. Cuộc hành quân khởi diễn sáng sớm ngày 2 tháng 1, 1963: một TÐ bộ binh của SÐ7 (Ðại tá Bùi đình Ðạm vừa được cử làm Tư lệnh), được trực thăng vận đến phiá bắc xã Tân Thới, để đánh chiếm xã này, hai tiểu đoàn Bảo An được điều động đến phiá nam Ấp Bắc để tảo thanh Ấp này và tiến lên nắm tay đon vị từ phiá bắc đánh xuống. Một đon vị thiết giáp gồm 13 chiếc  M113 tiến đánh hai xã này từ phiá Tây, mỗi chiếc xe bọc sắt M113 chở thêm một tiểu đội lính, những binh sĩ này sẽ nhẩy ra khỏi xe để phối hợp tấn công khi hữu sự. Các M113 đều trang bị đại liên 50 (12ly7) với tầm bắn hữu hiệu và độ phá hơn đại liên 30 rất nhiều, có một chiếc còn gắn thêm súng phun lửa. Yểm trợ hỏa lực của ta, ngoài pháo binh còn có phi cơ khu trục và lần đầu tiên trực thăng võ trang ‘Hueys’ (HU 1 B). Ba tiểu đoàn của ta gặp sự kháng cự mạnh của địch cố thủ trong Tân Thới và Ấp Bắc. Quân số địch không phải một đại đội mà là một tiểu đoàn, sẵn sàng chống cự các cuộc tấn công của ta (Cộng quân đã theo rõi được tất cả việc điều quân của ta qua hệ thống truyền tin). Các đơn vị bộ binh không vào được Tân Thới cũng không vào được Ấp Bắc và bị thiệt hại nặng về nhân mạng. Ðại đội M113, vì xình lầy và hỏa lực địch, cũng bị thiệt hại nhân mạng (các xạ thủ đại liên 50 chưa được bảo vệ bởi lá chắn đạn thép gắn trước súng đã lần lượt bị thương hay tử thương) và không yểm trợ gì được cho quân bạn và cũng không chọc thủng được phòng tuyến của địch. Yểm trợ phi pháo ít chính xác, nếu không phải vô hiệu vì địch ẩn náu rất kỹ. Ðến 15giờ ngày hôm đó, tình hình được coi như sau: một Tiểu đoàn VC trấn giữ Ấp Bắc đã đẩy lui các đơn vị bộ binh của SÐ7 cùng một đại đội thiết giáp M113, mặc dầu có Pháo binh và Không quân yểm trợ; Hoa Kỳ còn mất 5 trực thăng, vừa H21 vừa HU 1 B. Về phiá ta, không lúc nào một cấp chỉ huy cao cấp có mặt tại trận địa (Tư lệnh Vùng, Trung đoàn, Sư doàn ,Tiểu khu...) để kịp thời có quyết định thích ứng, và chỉ theo rõi diễn tiến và ra chỉ thị tại bộ tư lệnh hành quân ở Tân Hiệp, phó mặc các cán bộ cấp úy lo liệu tại chỗ. Thấy tình hình  không ổn, tướng Cao mới gọi Nhẩy dù xuống tiếp viện, song quá muộn và trong điều kiện vô cùng bất lợi. Ðược biết trong cuộc hành quân này, đã có sự bất đồng ý giữa VN và các cố vấn Mỹ ngay tại cấp Quân đoàn. Ông đại úy cố vấn TÐ8ND cho biết là các cấp trên của ông đánh giá rất thấp tài năng chỉ huy của VN trong cuộc HQ này. Không hiểu chuyện này có đến tai đại tá Cao văn Viên  Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn  Nhây dù không?

            Sau 1975, di cư ra nước ngoài tôi được đọc nhiều sách báo về chiến tranh Việt Nam, sách của phiá Mỹ thường bất lợi cho miền Nam Tự do. Tuy nhiên, sau cái thảm họa vô tiền khoáng hậu của Ðất Nước, tôi nghĩ mình phải nhìn lại chiến sử một cách khách quan chứ không nên lúc nào cũng cho mình phải và đổ lỗi lên đầu người khác. Riêng về trận Ấp Bắc, tôi được biết thêm là có sự hiềm khích và bất đồng ý kiến giữa tướng Cao và cố vấn Trung tá JP Vann: ngày hôm đó, ông này thường xuyên bay trên Ấp Bắc bằng phi cơ L19 để quan sát và đốc thúc các đơn vị dưới đất, trong khi đó tướng Cao chỉ ở Bộ tư lệnh hành quân. Những đề nghị của JP Vann ít khi được chấp nhận thi hành, từ việc điều khiển các đơn vị bộ binh cho đến việc xử dụng TÐ8ND quá trễ và không đúng chỗ (nếu thả sớm hơn, trước 16 giờ, thì còn đủ thời giờ thả cả một tiểu đoàn chứ không phải 1/2  tiểu đoàn trong điều kiện vô cùng bất lợi và nhất là phải cho quân nhẩy dù đáp xuống phiá đông Ấp Bắc để chặn đường rút của địch, chứ không phải ở phiá tây đã có mặt quân ta). Quả nhiên tối hôm đó địch đã rút lui một cách ngon lành về phía đông mang theo chết ( chắc chắn ít hơn ta) và bị thương. Cũng được biết là quân số VC là 350 người, chỉ có vũ khí cá nhân và đại liên 30, sau này mới được biết thêm chúng có một súng cối 60. Nói về lãnh đạo chỉ huy, nếu các sĩ quan cao cấp bên ta chịu khó đến ngay mặt trận  đôn đốc binh sĩ, giám liều bay thám sát trận địa để lấy quyết định nhanh chóng tại chỗ, thì Ấp Bắc chắc chắn phải là một thắng lợi lớn của Quân đội Quốc Gia.

            Người ta đã nói nhiều về JP Vann, cố vấn SÐ7BB, sau này là cố vấn trưởng tại Cao nguyên Trung phần. Anh này mang tiếng là thực dân, hống hách, độc tài, lúc nào cũng muốn chỉ huy...Tôi không được biết và không hề gặp người sĩ quan đồng minh này, song theo sách vở kể lại thì JP Vann đã xả thân trong trận Ấp Bắc để cố kéo chiến thắng về phiá ta . Và đã không ngớt lời chỉ trích các tướng tá Viêt Nam sau trận này. Trong đời binh nghiệp, tôi đã có cơ hội làm việc nhiều với các cố vấn Mỹ, từ cấp nhỏ (Tiểu đoàn) đến cấp lớn (Tổng tham mưu). Tôi khẳng định không một người cố vấn nào sách nhiễu tham nhũng, khinh miệt hoặc bắt chúng tôi phục vụ cá nhân họ. Có cố vấn hiền hậu vui tính, có cố vấn căn cơ tỉ mỉ, cũng có vài cố vấn khó tính khó ưa, song người nào cũng chỉ muốn giúp cho Quân đội ta khá lên mà thôi. Tôi chỉ xin đặt lại một câu hỏi : trong ngày 2-1-1963, có vị chỉ huy cao cấp VN nào bay cùng JP Vann trên bầu trời Ấp Bắc không? Có vị nào lấm bùn đôi giầy trận, nghe đạn bay trên đầu với các binh sĩ trước xã Tân Thới và Ấp Bắc không?

            Mới đây, tôi được đọc một bài của Trung tướng Tôn thất Ðính viết về Ấp Bắc. Bài khá dài, đọc đi đọc lại mới rút tiả được hai kết luận:

1/ Chúng ta đa thua trận Ấp Bắc

2/ Ông Ngô đình Nhu, nhân vật quan trọng trong chính quyền hồi đó, rất xung khắc với người Mỹ, và đã làm đủ mọi cách để tỏ cho người Mỹ biết là họ không thể  thắng trận nếu họ cứ muốn chỉ huy.

Nếu đúng như vậy, Tướng Cao, người đảng Cần Lao tuyệt đối trung thành với nhà Ngô, đã theo đường lối đó và không bao giờ đếm sỉa đến ý kiến của Mỹ, tức cố vấn JP Vann hồi bấy giờ. Cộng thêm cái tài năng chỉ huy thấp kém, luôn luôn sợ sệt bị thất sủng nếu phải báo cáo lên Cụ tổn thất của phe ta, ông đã dâng cho VC một chiến thắng mà chúng không ngờ.

Bác sĩ  Hoàng Cơ Lân

Cựu Y sĩ trưởng SÐND/ QLVNCH